Truyện ngắn của Trần Thanh Hà

o-rung-1696347987.png

Đi đâu? “- thằng Tăng hỏi, cộc lốc. Chả là chúng tôi đang cuối khóa học, sắp sửa đi thực tế, đứa nào thích đi vùng nào thì đăng ký”. Đâu cũng được. Nước non gì!. “Tôi uể oải. Tăng vứt phẹt mảnh gương con lên gối tôi: “Soi đi. Mặt giống mớ giẻ rách. Đàn bà là thứ mẹ khỉ!”. Tôi nhòm vào gương. Giống giẻ rách thật. Tôi đã nằm suốt mấy ngày nay, mặc mọi thứ, bài vở, luận văn, các em bé xinh xẻo và làm bộ mê nghệ thuật xưa nay tôi vẫn hay lấy làm trò giải trí... Phương đi lấy chồng. Một gã quan chức bụng phệ lắm của! Như là một tất yếu, chẳng đáng nửa gờram ngạc nhiên. Ừ thì mẹ khỉ, mà trong đời không từng khốn nạn vì một loại mẹ khỉ như thế thì có thành nổi thằng đàn ông không! “Hay tao ghi tên mày đi A Lưới luôn? Rừng rú một phen cho nó tròn cuộc đời...”. Tăng trở vào, lại hỏi. Trong mấy năm theo học đại học, tôi chỉ có nó là bạn. Nó là một thằng bông phèng và cùn, yêu như chuồn chuồn chớp nước, học dốt, được cái có tiền và rộng bụng. Nó học mỹ thuật không phải vì có tài hay mê, đơn giản là vì chẳng biết học gì hơn. Bố nó làm giám đốc văn hoá một tỉnh “Nhiệm kỳ sau chắc cái phó chủ tịch văn xã” - nó tự tiên đoán rồi vỗ ngực: “Đương nhiên tớ là giám đốc Nhà văn hoá, ít cũng trưởng phòng chuyên môn”. Nghệ thuật, đấy là một thứ trang sức làm đẹp xã hội - nó lý luận thế. Nó làm luận văn tốt nghiệp về vấn đề: “Nghệ thuật tranh cổ động”. “Cổ động thì nghệ thuật quái gì!” - bọn khoa tôi chửi nó. “Là nghệ thuật mềm dẻo” - Nó đáp. Vậy mà nghe đâu nó sắp hoàn thành luận văn, đi thực tế về nữa là O.K.

Chỉ trông gặp một nường nào bén mắt, tí toáy vui chơi, rồi chuồn. Các em thành thị, quen lắm cũng chán bỏ mẹ - Nó tuyên bố. Đấy là mục đích của nó. Thế cũng được, có cái mà vui, mà thấy đời có nghĩa.

Tôi đi chẳng mục đích gì. Đời tôi, gần ba chục năm, chỉ thấy mỗi trò yêu đương là đáng giá nhất. Đời là một cuộc càng chơi càng trắng tay. Mặc kệ, đỡ phiền. Không biết thế hệ tôi có thế cả không?

Miễn nghĩ? Đấy là phương châm.

Đấy, cũng là lý do để tôi có mặt ở nhà một người đàn ông tên là Đang, ở buôn A Choi, sâu trong rừng A Lưới, tây thành Huế.

Nhà ông Đang, người Cơtu gọi là Ma Đang, có cả thảy năm người: Mí Mùa là vợ, Kan Sao con gái lớn, Ku Lơng thứ hai, sau nữa là hai con bé con tên Kan Mun và Kan Thương.

Tôi ở đến ngày thứ ba thì tạm gọi là quen được Mí Mùa. “Núi sau nhà là núi Bông. Khe trước mặt là Khe Lu. Không có cọp beo, nhưng đừng đi xa, lạc đấy! Trưa bỏ gạo vào ống lam mà nấu...” Mí Mùa dặn tôi trước khi đi nương. Tôi nhìn Mí ngạc nhiên, thấy sao Mí nói tiếng Kinh sõi thế, hơn dân buôn rất nhiều. Nhưng Mí già, so với Ma Đang thì Mí già lắm lắm. Không biết Mí mấy chục mà lưng còng, vú chảy sệ thõng thẹo, mặt thì nhăn hết chỗ nói. Ngày xưa bà tôi cũng già, nhưng không xấu và sợ bằng Mí Mùa. Tôi quẩn quanh mấy ngày, hết ra suối lại lên nhà, buồn chân suỵt đuổi mấy con lợn con gà ăn quẩn dưới gầm nhà sàn, không dám đi xa. Thằng Tang ở buôn bên kia. Nó chấm xí nhà ông Chủ tịch, vì nhà ấy giàu, gần lối đi ra huyện, hơn nữa có cô con gái tương đối.

Bấy giờ là đầu tháng mười hai. Dưới Huế độ này đang mưa. Mưa Huế âm ỉ, triền miên cả tuần cả tháng không dứt. Ngồi trong cư xá, nhìn màn mưa giăng giăng mờ mờ, đêm vắng nghe nước giọt ti tách đều đặn từ mái hiên, chỉ muốn tự tử. Trên này lại mùa khô. Khô và lạnh. Sáng mở mắt nhìn trời, thấy sương đùng đục từng tảng đùn ra từ những kẽ núi, trườn trắng nhởn trong thung lũng, nhìn mãi rợn cả người. Tôi xách giá vác cọ ra bờ suối, chẳng vẽ được cái gì. Nước chảy óc óc. Buồn quá! Tôi bỏ phố để trốn chạy một nỗi buồn, đúng hơn là một kiểu buồn, đến đây lại gặp một kiểu buồn khác, Luận văn, tác phẩm tốt nghiệp… mơ hồ chờn vờn đâu đấy, không đủ để thành một ý nghĩa. Sao vậy?

Tôi nằm ngửa trên đá, nghe hơi đá thấm từ phía sau lưng, hơi sương từ phía trước ngực. Vây quanh tôi là núi, toàn núi, chìm chìm trong mây, thi thoảng mới nhô ra một vài mỏm nhọn hoắt trông giống răng con sư tử. Tầm gần trưa nắng lên, sương tan, để lộ một khoảng trời xanh thẳm, hun hút, nhưng trên những đỉnh núi cao, mây trắng vẫn lởn vởn. Một ngày thế. Hai ngày thế... Những ông bà già người Cơtu đi qua không hỏi tôi. Họ biết ít tiếng Kinh. Và đúng hơn là họ chẳng thấy có nhu cầu” - từ dùng một cách văn minh - bắt chuyện với tôi; trẻ con đứng xa xa thì thầm với nhau bằng tiếng dân tộc, các cô gái ra suối vừa kịp thấy tôi ườn ườn vội kêu re ré, rồi chạy trốn vào những lùm cây. Tôi tự nghĩ hay tôi là ma, là quái vật? Hôm lên đây đến giờ tôi chẳng soi gương, chẳng chải tóc. Mảnh gương con thằng Tăng bỏ túi, Không biết mặt tôi bây giờ giống cái gì?

“Buồn lăm à?” Mí Mùa hi. Tôi d, bt cht thy lòng rưng rưng. Tôi không dám nhìn lâu mặt Mí, mt Mí nhíu nhíu nếp nhăn thê thm Mí là đàn bà Cơtu đàn bà Cơtu ch biết ly chồng, đẻ con, làm lng, rồi chết mà không biết mơ ước gì. Tay Mí đơm cơm cho tôi kìa, bàn tay đen nhẻm, những ngón to và sần sùi, và cứ toè ra. Như thể tất cả những khốn khổ của đời này đổ hết lên Mí, và Mí thì cứ thế, công nhiên hứng chịu gánh cái khổ cặm cụi đi hết đời, chẳng buồn, chẳng đau. Mẹ tôi cũng thế. Mùa này quê tôi cũng lạnh. Không biết mẹ tôi có mặc áo rách như Mí Mùa? Không biết mẹ tôi có già như Mí Mùa? Hai năm nay, tôi vẽ tranh nhí nhắng, bán được tiền, rồi gặp Phương, đi cùng em trong cuộc yêu ham hố, tôi không về thăm mẹ nữa. Trong nỗi đau tôi, tôi cũng chỉ biết đau vì tình. Bây giờ nhìn Mí Mùa tôi mới thấy thứ tình của tôi vô nghĩa làm sao! Mẹ ơi! Tôi muốn khóc quá. Chờn vờn chờn vờn là bóng mẹ tôi hớt hải ngơ ngác bên bến Chiềng sông La. Bến vắng chiều hoang... Mẹ còn đợi hả mẹ? Xưa kia cha tôi cũng vì tình mà bỏ mẹ tôi đi, rồi chết mất xác trong Sài Gòn. Mẹ tôi lẳng lặng thờ cha, rồi từng đêm lẳng lặng khóc, rồi từng chiều từng chiều ra bến sông ngồi đợi... Thì sông nước vẫn vậy! Cha tôi không về lâu rồi, tôi cũng bặt vô âm tín. Mà bất chợt bây giờ mới hiện lên mồn một hình hài mẹ tôi, nỗi niềm mẹ tôi... Mẹ ơi!

Đêm ấy tôi nằm mãi không ngủ được. Lạnh quá. Và cô đơn quá! Tôi đeo đẳng một ảo hình thậm chí không biết là ảo hình gì... Mà ở đâu ở đâu người có thể thấu hiểu tôi, có thể sẻ chia cùng tôi, có thể khóc có thể cười với tôi? Ai là kẻ trong đời sinh ra để chờ tôi để yêu tôi để vỗ về tôi những đêm lạnh thế này? Phương ơi, bây giờ Phương vô nghĩa lý! Nhưng mất đi một thứ vô nghĩa như thế, thì tôi lấy gì để an ủi mình? Buồng trong Kan Sao thở đều đặn. Chắc Kan Sao ngủ say. Tôi ở nhà em một tuần rồi nhưng em cứ trốn tôi, em giấu gương mặt em sau A Chói, chẳng cười chẳng hỏi tôi. Mí Mùa cũng ngủ. Mí có nghĩ ngợi gì không, hả Mí?

Nhưng đêm nay còn một người nữa không ngủ. Ấy là Ma Đang! Ma ngồi vấn thuốc bên bếp lửa, lặng yên. Bóng Ma chập chờn bên vách, lúc rõ lúc không. Đêm sâu thăm thẳm, tĩnh và đen kịt. Chỉ lâu lâu phía bên kia núi vắng qua tiếng mang tác thảm thiết. Tôi nhớ chiều nay lần đầu tiên Ma Đang hỏi quê tôi: “Hà Tĩnh” Tôi trả lời, bỗng giật mình vì hình như thấy Ma Đang giật mình, dù rất khẽ, và trong đôi mắt sâu tối và lạnh lùng của ông có một chút gì đó loé sáng. Sao vậy Ma Đang?

Con mang tác thảm quá. Mí Mùa bảo mang chỉ tác lúc nào mất bạn tình. Tiếng tác gấp gấp là tiếng mang đực, tiếng ngắt quãng và tiếng kéo dài về cuối là tiếng mang cái. Dễ chừng con mang tác đêm nay là mang cái! Ngoài rừng sương lạnh và dày, sao thấy lối mà tìm bạn hả mang? Mí Mùa kể rằng mấy năm nay người Kinh từ dưới Huế, người Kinh từ ngoài thị trấn vào nhiều, rảo khắp rừng A Choi săn thú, mang mất bạn không đêm nào không tác không gào, “trước chiến tranh, rừng A Choi nhiều thú, về sau bom đạn quá chúng tản đi hết. Yên ắng được ít lâu cầm thú về lại rừng thì bị người bắn...” Mí Mùa than thở với tôi thế. Làm sao được, cả con người cũng thấp thỏm bất an, nỗi bất an mơ hồ vì muôn thứ lí do, mà không phải lí do nào cũng có lí...

Ngoài kia Ma Đang vẫn ngồi, như một pho tượng. Khói thuốc mù khét phả vào không gian nồng nặc.

Tôi chuồi khỏi chăn, rón rén ra bếp, ngồi xuống. “Không ngủ được à?”. Ma Đang hỏi. Tiếng Ma nhỏ gần như thì thầm.

Tôi cố nhìn mặt Ma Đang. Ánh lửa lem nhem chỉ hắt thêm bóng tối vào gương mặt ông. Đấy là một gương mặt đầy bóng tối, bóng tối của bờm tóc xơ cứng, của đôi mày rậm dài, của đám râu lâu ngày không cạo, và nhất là đôi mắt - đôi mắt sâu và lạnh, và hoang hoải gai người...

“Chú là con ông Hiển xóm Chiềng?” - Bất ngờ Ma Đang hỏi. Tôi bàng hoàng, lạnh dọc sống lưng. Cha tôi mất lâu rồi mà chẳng lẽ bóng hình ấy, đam mê ấy còn in dấu nơi tôi? “Sao Ma biết?” - tôi ngạc nhiên. “Vì tôi ở cạnh nhà chú. Vợ tôi tên Nghĩa” Ma trả lời, giọng trầm rè. Tôi dường như không tin ở tai mình nữa. Chẳng lẽ đây là chú Đang, chồng trước của thím Nghĩa tôi?

Và đêm ấy, bên bếp lửa bập bùng, giữa cái lạnh lùng se thắt của vùng cao và tiếng mang tác ngắt quãng, thảng thốt ngoài cánh rừng, tôi được nghe câu chuyện về cuộc đời Ma Đang...

chuyen-o-rung-1696348201.jpg

Minh họa của Nguyễn Hữu Ngọc

Bấy giờ là cuối năm một chín sáu bẩy. Miền Bắc đang từng ngày từng giờ đối mặt với chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhưng vẫn dốc toàn lực cho miền Nam. Anh thiếu uý Nguyễn Văn Đang vừa mới cưới vợ.

Căn nhà của họ sát bến Chiềng vừa ấm tiếng cười thì anh nhận lệnh đi Nam gấp. Vội vã chia tay vợ, anh theo xe vào Quảng Bình, theo đường 15 lên tập kết ở ngã ba Dân Chủ, rồi từ đó cứ men Trường Sơn mà vào thung lũng A Lưới. Dịp đó đang chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy, bộ đội, thanh niên xung phong... qua lại các binh trạm, các tuyến đường rộn rịp. Lòng anh sĩ quan trẻ cứ náo nức, chỉ muốn được vác súng hành quân theo bộ đội. Ngỡ vào Nam là được đánh, nhưng anh chỉ nhận được mỗi mệnh lệnh là nằm lại A Choi, chờ nhiệm vụ. Đầu xuân sáu tám, súng rộ khắp miền Nam, các sư đoàn chủ lực dốc về xuôi cả, bỏ Trường Sơn lại cho một vài binh trạm. Chiến sự ác liệt ở ngay Huế. Đấy là chỉ ngóng tiếng pháo tiếng bom mà đoán vậy. Nằm dưới chân núi Bông, lòng anh như lửa đốt. Nhưng hi vọng về một nhiệm vụ nào đó cực kỳ quan trọng cũng phần nào giúp anh an lòng. Rồi mặt trận vỡ, Mỹ - Ngụy phản công, lực lượng ta lại phải rút lên rừng. Rồi bom, rồi pháo. Tất cả các tuyến đường, các kho tàng, tất cả các cánh rừng miền Tây Huế bị bắn phá dữ dội, rồi chất độc hoá học, rồi bom napan… Rừng cháy, cây chết, trụi từng mảng lớn. Dân Cơtu, dân Tà ôi... ở A Choi nháo nhác. Nhà cháy, người chết, nương rẫy nát bét. Họ chạy từ núi này qua suối khác, họ nhào vào những hang núi, hoảng loạn. Chỉ để đừng chết. Không ai nghĩ gì hơn. Lúc ấy ở A Choi chỉ duy nhất có mình Đang là “bộ đội” - dân Cơtu, Tà ôi quen gọi tất cả người miền xuôi đi đánh Mỹ là “bộ đội”. Không thể khác, Đang phải chung số phận cùng đồng bào. Anh cùng đồng bào nằm hang nhủi rừng, cùng đi đào củ mài củ chuối, đói cùng đói, rét cùng rét. Anh là người của “cách mạng”, đồng bào còn tin ở anh tức là còn tin ở “cách mạng”.

Sau đấy là những ngày đói quay quắt, đói ròng rã. Đến rau dại cũng không có mà ăn. Có hôm mờ cả mắt, ăn cả sâu róm, ăn bất cứ cái gì bỏ được vào miệng. Bộ đội kéo qua cũng thế. Rừng vật vã trong một cơn đau tận cùng cỡ bậc nhất trong lịch sử. Bao nhiêu đồ đạc tư trang, cái thì sẻ cho dân, cái mất mát, mục nát, duy thẻ quân nhân, cặp quân hàm và khẩu súng ngắn là anh cất kỹ, cố giữ đến ngày có lệnh mới, để làm tin... Một tháng, hai tháng. Rồi một năm, hai năm. Không hề có một lệnh gì. Cũng không gặp được ai trong đơn vị cũ. Thi thoảng lắm mới gặp một bóng bộ đội hỏi chỉ nhận được cái lắc đầu. trong rừng, hồi đầu anh còn có lịch, sau mất lịch, anh khắc than lên vách lán tính thời gian, nhưng dần dần không tính nổi nữa, anh chỉ còn biết nhìn trời mà đoán bấy giờ đang sớm hay chiều. Không biết từ bao giờ anh không cắt tóc, không cao râu. Đến cố một lần thử soi vào mặt nước xem mặt mũi mình thế nào anh cũng không dám. Người Cơtu A Choi bắt đầu quên anh là người Kinh. Và anh thì đã quen đóng khố để ngực trần như đàn ông Cơtu. Anh vẫn cố đợi, vì còn niềm tin của người A Choi. Vì biết đâu ngày mai, ngày kia, ngày kia nữa...

Nghĩa ơi! Đêm đêm chập chờn những cơn mê ngủ, anh lại bồng bềnh trôi về với sông La, với bến Chiềng, với người vợ trẻ. Nghĩa ơi, đợi nhé, anh sẽ về…

“Vậy đó! Khi tôi không còn đủ kiên nhẫn để đợi nữa và tôi đã gần như cảm thấy mình loạn trí, tôi cắt rừng về xuôi, mới hay vừa hết chiến tranh. Tôi đứng giữa phố Đông Hà mà rú lên, chú ạ! Rồi bất giác nhận ra người ta nhìn tôi ngơ ngác và lạ như nhìn một quái vật. Tôi nhìn tôi trong tấm kính trước một cửa hiệu mới dựng, thấy tôi đúng là quái vật thật. Nhưng tôi còn tin. Tôi đến một uỷ ban, người ta bảo đấy là uỷ ban, chứ thật lúc ấy tôi chẳng biết đấy là uỷ ban gì nữa. Tôi chìa thẻ, chẳng ai tin. Chắc người ta tưởng tôi điên. Người ta thu luôn thẻ của tôi, vì nghi tôi bắt được hay thóp ở đâu đấy. Tôi đòi lại, tôi năn nỉ, ứa nước mắt nài cũng không được. Tôi chìa tiếp khẩu súng thì trời ơi nó chỉ là một cục sắt rỉ. Lúc đó tôi hận lắm, nhưng sau này ngẫm lại, thấy người ta có lí, vì cái mặt tôi lúc ấy làm sao giống mặt thiếu uý Nguyễn Văn Đang trong tấm thẻ kia được. Thế là tôi trắng tay. Không một xu kẽm, nhưng tôi cũng lần hồi ra đến Đ... Giờ thì tôi thận trọng hơn. Tôi đến công an huyện, vờ lân la hỏi, mới biết đồng đội cũ chẳng còn ai, người vào Nam hi sinh, người chuyển công tác, người về hưu... Hỏi thêm thì biết là tôi được báo tử từ năm bảy mươi. Thôi thì... Tôi về quê. Không còn gì tôi vẫn còn Nghĩa. Nhưng chú ạ, đến đầu làng đã nghe tin Nghĩa lấy chồng khác có con rồi, chồng Nghĩa lại là Tính, bạn tôi... Nước ấy tôi tuyệt vọng thực sự, chỉ muốn gào rách họng ra rồi chết quách. Nhưng ngẫm lại thấy chả trách ai được. Chiến tranh nó có cái lí riêng của nó, chẳng thể khác... Tôi thấy tôi xuất hiện bây giờ cũng vô ích, lại thêm khổ cho Nghĩa, cho Tính. Thôi coi mình chết rồi vậy. Tôi quyết định đi, đâu cũng được. Biết đâu tôi còn cơ hội... Biết đâu đời tôi chưa thể hết... Nhưng rồi tôi vẫn không chống nổi cám dỗ được thấy Nghĩa lần cuối. Tôi đến nhà mình, không gặp Nghĩa, nhưng thấy ảnh mình đặt trên bàn thờ, nhang khói cẩn thận. Đúng là thằng tôi ngày xưa, trẻ trung và yêu đời bao nhiêu! Tức là Nghĩa còn thương nhớ tôi! Vậy tôi cũng mãn nguyện lắm rồi... Đêm ấy tôi nằm co ngoài gốc si đầu làng, dưới tầng mưa phùn não nuột, tầm gà gáy canh ba tôi lẳng lặng đi... Tôi về lại A Choi. Ở đấy người ta cần tôi. Ở đấy Kan Mùa đã đem lòng thương tôi...”

Im lặng. Ngoài kia con mang rừng vẫn tác, nhưng thưa hơn và khẽ hơn. Không biết nó có tìm ra bạn tình không?

“Nhưng ngày đó bác có thể ra khỏi rừng sớm hơn?”. Không cầm được, tôi buột miệng hỏi. “Có thể. Nhưng tôi là một người lính. Nhiệm vụ đầu tiên người linh phải làm là chấp hành miệnh lệnh. Vả lại tôi không thể bỏ dân A Choi trong hoàn cảnh như thế...” Ma Đang chậm rãi nói.

“Bây giờ bác có buồn không?” - tôi lại hỏi, mà hình như không ý thức được mình hỏi gì. Ma Đang lặng lẽ cời than trong bếp, lúc sau mới nói: “Làm con người ai không có nỗi buồn. Tôi cũng thế thôi. Nhưng thú thật, cái bi kịch của tôi thấm tháp gì với hàng nhiều người khác. Với lại cái chính bây giờ người Cơtu gọi tôi là Ama. Danh từ ấy chỉ dành gọi người được tin tưởng, kính trọng, cái chính là bây giờ tôi có các con tôi...”.

Các con tôi rồi sẽ đẹp, sẽ khoẻ. Chỉ mong sao con gái lớn lên đừng sớm tàn tạ như Mí nó. Ngày xưa Mùa là một cô gái đẹp. Ngày xưa bắp chân Mùa tròn. Chân ấy đi rẫy thoăn thoắt. Ngày xưa mắt Mùa cũng giống mắt con Kan Sao bây giờ, sáng và trong như mắt nai rừng...

Khi Ma Đang ngừng câu chuyện thì lửa trong bếp đã tàn. Đâu đó eo óc tiếng gà. Tôi nhìn ra ngoài trời, thấy ngoài đó đã bắt đầu một màu hồng rạng. Tôi xuống thang. Sương vẫn dập dờn trong thung lũng, nhưng sớm nay sương nhẹ và đẹp như một tấm khăn choàng mỏng choàng qua buôn bản. Tôi quỳ xuống, nghe hơi đất đai bốc lên nồng nàn và ngai ngái. Tôi chắp tay. Đấy là lần đầu tiên tôi biết chắp tay lạy tạ CUỘC ĐỜI.

Vnt 3,4,5(70,71,72)