“Vấn đề là làm sao tránh được các thảm họa…”
Nếu có thể ráp nối các công trình dịch thuật của Nguyễn Nghị thành một hệ thống, người ta có thể nhìn ra được lịch sử Việt Nam ở một hướng tiếp cận khác: Từ cách nhìn của nhà sử học nước ngoài, và của các nhà nghiên cứu người Việt xa xứ. Cái nhìn bao quát, khoa học, tôn trọng khách quan đó đã “gợi ý cho một cách nhìn lịch sử khác với thói quen ở ta từ khá lâu, cho một lịch sử của đời sống thật, cụ thể” - như nhà văn Nguyên Ngọc nhận định trong bài diễn văn về Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh mà Nguyễn Nghị là một trong 5 tác giả vừa được trao tặng.
Dịch giả Nguyễn Nghị ( bên phải) nhận giải thưởng Phan Châu Trinh ( Ảnh)
Không phải ngẫu nhiên mà một giải thưởng đề cao về dịch thuật như giải Phan Châu Trinh đã xướng tên Nguyễn Nghị. Các tác phẩm ông chọn dịch đều xuất sắc, thể hiện con mắt tinh tường: “Xứ Đàng Trong - Lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 18 và 19” của Li Tana, “Nền đạo đức Tin Lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản” của Max Weber, “Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo” của Hans Kung, “Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII” của Nguyễn Thanh Nhã, “Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ XX” của Lê Thành Khôi… Đặc biệt, “Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII” của Nguyễn Thanh Nhã vạch ra một cách sắc sảo tình hình dân tộc VN thế kỷ XVIII đã bỏ lỡ cơ hội vươn mình thực hiện cuộc cách mạng công nghiệp mà các dân tộc Tây Phương và Nhật Bản đã làm, như học giả Đào Duy Anh nhận định.
Người thường dịch sách sử đã “toát mồ hôi”, huống hồ đây là các cuốn sách về tôn giáo, dân tộc học, triết học, thần học, xã hội học, kinh tế học. Vậy mà một dịch giả như Nguyễn Nghị đã “đi đến nơi, về đến chốn” trong từng tác phẩm chuyển ngữ của mình. Một người có kiến văn thâm sâu chưa đủ, biết nhiều ngôn ngữ chưa đủ, phải có vốn hiểu biết sâu sắc về nhiều lĩnh vực, mỗi ngày tích lũy từng kinh nghiệm một để cho ra những bộ sách tinh hoa khác biệt. Nguyễn Nghị là một người như thế, nhưng vẫn rất khiêm nhường.
* Vì sao ông chọn dịch được những tác phẩm có giá trị như vậy?
- Thực ra, không phải tôi đã chủ động chọn các sách này, mà một cách nào đó, có thể nói, đã có một sự kết hợp nào đó giữa những cơ may, những cuộc gặp gỡ, quen biết… từng bước dẫn tôi tới chỗ chọn và nhận dịch các cuốn sách trên. Tôi được cái may mắn gặp Li Tana trong một buổi hội thảo về lịch sử Việt Nam, sau đó lại có dịp gặp tác giả tại nhà một người bạn cũng ở trong giới Sử học. Bà ngỏ ý muốn dịch luận án tiến sĩ về lịch sử kinh tế - xã hội thế kỷ 17 - 18 của xứ Đàng Trong sang tiếng Việt Nam. Người bạn chỉ ngay tôi và tôi thấy nội dung của cuốn sách hay hay, nên nhận lời dịch. Trong quá trình dịch, tôi có dịp trao đổi với bà và khám phá thấy nhiều điều thú vị và mới mẻ trong tác phẩm, từ đó thấy thích thú chủ đề này.
Sau này, khi gia đình và bạn bè của ông Nguyễn Thanh Nhã bên Pháp có ý định dịch luận án tiến sĩ của ông có tựa đề được dịch sang tiếng Việt là “Bức tranh Kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII”, để tưởng nhớ tác giả đã qua đời trước đó không lâu, tôi đã bị chọn để làm công việc dịch này. Làm sao thoái thác được vì tôi đã dịch một cuốn cũng có tựa đề tương tự.
Cũng sự tình cờ như vậy đã dẫn tôi tới việc dịch cuốn Lịch sử Việt Nam của GS. Lê Thành Khôi. Số là tôi đã mua được cuốn sách này từ hồi học sử tại Đại học Văn khoa Sài Gòn vào đầu thập niên 1970. Mãi sau này, tình cờ gặp được người đại diện phía Nam của Công ty sách Nhã Nam. Anh ngỏ ý muốn dịch một công trình về Lịch sử Việt Nam. Tôi giới thiệu cuốn này, được viết bằng tiếng Pháp. Và thế là tôi lại được hân hạnh giao “nhiệm vụ” dịch công trình này. Còn hai cuốn có liên quan đến tư tưởng hay thần học Kitô giáo, anh Chu Hảo và bạn bè quan tâm tới việc dịch một số tác phẩm của phương Tây để giới thiệu với độc giả Việt Nam, đã kêu tôi dịch vì biết tôi có tham hiểu đôi chút về Kitô giáo.
Có thể nói cái gọi là sự nghiệp dịch thuật của tôi đã được hình thành trong một bầu không khí nào đó và từ một thích thú riêng khiến mình dễ dàng chấp nhận những cái anh em đề nghị với mình.